Nhớ Uganda.

Nhân một ngày trong bao ngày thế giới đang hoảng loạn, chẳng bước chân đi đâu ra ngoài bán kính nhà mình và siêu thị. Mình nhớ Uganda, nơi mình đã thực tập giảng dạy (toàn phần) với Ashinaga Africa Initiative

Nhớ sân bay quốc tế Entebbe duy nhất ở đất nước này, bao quanh bởi ruộng, cỏ mênh mông, và những công trình thi công, cách đó không xa là hồ Victoria to tưởng chừng như biển. Entebbe còn nhỏ nữa, nhỏ đến mức mình thấy nó nhỏ nhất trong những sân bay mình từng đặt chân đến. Nhỏ hơn sân bay Myanmar, nhỏ hơn cả sân bay Komatsu ở Ishikawa của Nhật. Entebbe thậm chí chỉ có cổng lên và xuống cho 2 chiếc máy bay, thời điểm mình thấy là 1 chiếc của Quatar Airlines, chiếc còn lại là Emirates. 

Nhớ những con đường bụi mù đất đỏ. Ở trung tâm thủ đô Kampala còn nhiều đường bê tông, chứ chỉ cần ra ngoại ô một chút là thấy con đường bê tông hóa của đất nước này chắc còn dài lắm. Vậy mà người ta vẫn đầu trần chân đất đi trên những con đường ấy, tay cầm đồ, hoặc đỡ thúng trên đầu, vừa đi vừa rao bán. Nhớ những ngôi nhà gạch chỉ dựng lên chứ cũng chẳng kịp sơn, nhà nào có sân nhìn ngay thấy buồng chuối và đống khoai.

Các cụ vẫn bảo: “Nhà nghèo thì phải ăn khoai. Ăn khoai thì đêm nóng ruột. Đêm nóng ruột thì không ngủ được. Không ngủ được lại đẻ nhiều con. Đẻ nhiều con thì lại ăn khoai”. Và những câu ca này đúng với Uganda thật sự.

Muôn hình vạn trạng nhà. Nhà gạch (không sơn), nhà bằng gỗ, nhà bằng tấm lợp…

Mình nhớ học sinh mình – những “hệ quả” của việc “ăn khoai”. Các bạn í đẻ ra trong gia đình đông anh chị em, nhỏ tuổi hơn mình mà vẫn có người đếm cả bàn tay bàn chân mới hết anh chị em ruột thịt. Có bạn đi đôi giày rách tươm nhìn đến xót xa. Có bạn nghèo đến độ bố mẹ mất sớm, phải tự xây nhà cho bản thân để có nơi che mưa che nắng, bảo sao bạn í có ước mơ trở thành Kỹ sư xây dựng dân dụng. Và còn bao nhiêu bạn được đẻ ra mà chẳng biết bố hay biết mẹ là ai, chỉ vì người ta có nhiều con quá, có nhiều mối lo, nên không quan tâm hết được những mảnh đời họ đã tạo ra. 

Mình nhớ cả những bữa ăn chỉ có cơm và đậu hạt. Nhớ rolex, nghe tưởng đồng hồ sang chảnh nhưng thực ra tên gọi của roll-egg, trứng cuộn với hành tím, cà chua bên trong. Nhớ việc vào mạng cũng là điều xa xỉ vì mạng chậm rề rề, điện nước lúc on lúc off, nhưng chắc nhờ thế nên con người ta mới có thể, dưới ánh nến ở khoảng trống ngay khu chợ, cùng nhau nhảy múa hát ca, người ta cười nói với nhau nhiều hơn, người ta dành nhiều thời gian nói chuyện mặt đối mặt thường xuyên hơn. 

Một sạp hàng trong sân nhà và cũng là mặt đường của người dân. Có chuối, khoai, sắn, bơ, dứa…

Những quầy hàng ở chợ. Anh bán hàng đang đứng trước đống bột và trứng được dùng làm rolex.

Nhớ nắng, nhớ gió. Nhớ một cuộc sống mà đến nơi rồi mình mới biết hóa ra tuổi thơ của mình vẫn còn đủ đầy lắm. Mới biết Việt Nam, dù ở vùng nông thôn, cũng có thể là thì tương lai 5-10 năm nữa với một số nơi trên Trái Đất. 

Phương tiện giao thông ở Kampala: xe taxi (bên trái) và xe tư (bán trái cây, bên phải).

Taxi ở đây chở mấy chục người, to như xe khách của mình, và cảm giác như xe bãi của các nước phát triển đã dùng cách đây mấy chục năm.

Một ngày bâng quơ buồn, nghĩ đến chuyện đáng nhẽ giờ này mình đang ở Nam Phi, theo đuổi con đường mình mong muốn, nhưng mình đã lựa chọn khác. Mặc dù vẫn biết mỗi lựa chọn đều có niềm riêng. Nhưng mình vẫn nhớ Uganda, nhớ châu Phi rất nhiều. Hẹn ngày gặp lại